Thể tích dư (RV) là lượng không khí còn lại trong phổi sau khi thở ra hết. Không khí này không thể bị tống ra ngoài và nó giúp giữ cho các phế nang (các túi khí nhỏ tạo nên phổi) luôn mở. Thể tích cặn là một trong số các yếu tố mà bác sĩ đo trong quá trình kiểm tra chức năng phổi để xác định xem phổi hoạt động như thế nào. hoạt động.
Điều gì quyết định khối lượng còn lại?
Khối lượng dư được xác định bởi hai yếu tố cạnh tranh.
- Sức mạnh của các cơ thở ra và sức kéo vào trong của phổi có xu hướng làm giảm thể tích cặn.
- Sự kéo ra ngoài của thành ngực có xu hướng làm tăng thể tích dư.
Tại sao chúng ta cần khối lượng còn lại?
Phổi không bao giờ hoàn toàn trống rỗng; luôn có một ít không khí còn lại trong phổi sau khi thở ra tối đa. Không khí còn lại trong phổi là cần thiết để giúp phổi không bị xẹp.
Nếu thể tích còn lại này không tồn tại và phổi hoàn toàn trống rỗng, các mô tạo nên phổi sẽ có thể và dính lại với nhau, khiến chúng ta gần như không thể thổi phồng lại và buộc chúng phải mở ra một cách cố gắng.
Thể tích còn lại cần thiết cho quá trình thở và chức năng phổi thích hợp. Không khí còn lại trong phổi này cũng rất quan trọng để ngăn ngừa sự biến động lớn của khí hô hấp - oxy (O2) và carbon dioxide (CO2).
Thể tích còn lại là thể tích phổi duy nhất không thể đo trực tiếp vì không thể làm rỗng hoàn toàn không khí trong phổi. Khối lượng này có thể được tính toán, thay vì đo trực tiếp.
Tầm quan trọng của khối lượng dư
Trong phổi khỏe mạnh, không khí tạo nên thể tích còn lại được sử dụng để trao đổi khí giữa các lần thở. Khi bạn hít vào, bạn hút oxy trong không khí vào phổi, bổ sung lượng khí dư bị thiếu oxy để trao đổi khí trong phế nang.
Hình ảnh Koldunov / iStock / GettyKhối lượng dư được đo như thế nào?
Không có cách nào để đo thể tích cặn một cách trực tiếp, nhưng nó có thể được tính gián tiếp bằng xét nghiệm chức năng phổi. Các thể tích và dung tích phổi khác trước tiên phải được đo trực tiếp, thường bằng phương pháp đo phế dung, trước khi có thể tính được RV.
Bước đầu tiên trong việc tính toán RV là xác định công suất dư chức năng (FRC). Phép đo FRC có thể được thực hiện bằng một trong ba phép thử sau.
Thử nghiệm pha loãng Heli
Trong quá trình thử nghiệm pha loãng heli, bạn sẽ hít thở từ một bình chứa có chứa một phần khí heli đã biết. Một phế dung kế đo sự thay đổi nồng độ của các chất khí trong bình chứa. Thử nghiệm này được tiến hành trong một mạch hệ thống kín. Nó được sử dụng ít thường xuyên hơn chụp cắt lớp vi tính toàn thân.
Chụp cắt lớp vi tính toàn thân
Xét nghiệm chụp cắt lớp vi tính toàn bộ cơ thể đo tổng lượng không khí mà phổi có thể chứa. Trong quá trình kiểm tra này, bạn sẽ ngồi bên trong một buồng máy đo độ màng phổi kín gió và thở bằng ống ngậm trong khi các phép đo áp suất và lưu lượng khí được thu thập.
Khi bạn thở ra, thể tích khoang ngực của bạn có thể được tính bằng cách ghi lại sự thay đổi áp suất của toàn bộ khoang. Chụp cắt lớp vi tính toàn thân là phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất để tính FRC và thể tích còn lại và nó mang lại các phép đo chính xác nhất - nhưng cũng là phương pháp đắt tiền nhất.
Nitơ rửa trôi
Một phép thử mạch kín khác, một phép rửa nitơ, cũng có thể được sử dụng để xác định FRC, nhưng phương pháp này hiếm khi được sử dụng.
Khi FRC đã được đo bằng một trong ba phương pháp này, thể tích còn lại có thể được tính theo công thức sau: RV = FRC - ERV
Ý nghĩa lâm sàng
Thể tích cặn có thể được sử dụng để giúp chẩn đoán hoặc đo lường mức độ nghiêm trọng của các bệnh phổi tắc nghẽn, chẳng hạn như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), hen suyễn và giãn phế quản. Những tình trạng này được đặc trưng bởi tình trạng viêm đường thở, đường thở bị xẹp, tắc nghẽn dòng thở ra và mắc kẹt khí.
Trong bệnh phổi tắc nghẽn, tình trạng viêm và giảm độ đàn hồi làm tăng sức cản của đường thở và dẫn đến đóng đường thở nhỏ sớm khi thở ra. Kết quả là, không khí dư thừa bị giữ lại và tồn đọng trong phổi sau khi bạn thở, dẫn đến tăng thể tích cặn.
Mặt khác, hạn chế các bệnh phổi như xơ phổi và sarcoidosis, hoặc các quá trình ngoại lai như kyphosis và béo phì, hạn chế sự giãn nở của phổi. Kết quả là, ít không khí được giữ lại trong phổi sau khi thở ra tối đa và do đó lượng không khí còn sót lại trong phổi sau khi thở ra sẽ ít hơn bình thường.
Nếu bạn cảm thấy khó thở, hãy đến gặp chuyên gia y tế ngay lập tức. Bạn có thể được yêu cầu kiểm tra chức năng phổi bao gồm tính toán thể tích còn lại và các yếu tố khác ảnh hưởng đến chức năng phổi — chẳng hạn như tổng dung tích phổi, dung tích còn lại chức năng, thể tích thủy triều và dung tích sống.
Trong trường hợp cấp tính, nghiêm trọng, khó thở có thể được cấp cứu. Gọi 911 ngay lập tức, vì một số nguyên nhân gây khó thở có thể nguy hiểm đến tính mạng.