Nếu bạn bị nhiễm HIV, bác sĩ sẽ thường xuyên thực hiện các xét nghiệm máu để đánh giá tình trạng của hệ thống miễn dịch của bạn (được đo bằng số lượng CD4) và mức độ hoạt động của vi rút trong cơ thể bạn (được đo bằng tải lượng vi rút HIV).
Ngoài các xét nghiệm này, những xét nghiệm khác sẽ được thực hiện để theo dõi các tác dụng phụ hoặc các vấn đề y tế phát sinh do nhiễm trùng. Trọng tâm là bảng xét nghiệm được gọi là công thức máu hoàn chỉnh (CBC). Xét nghiệm đo thành phần của các tế bào trong một mẫu máu để đánh dấu những thay đổi nằm ngoài phạm vi giá trị "bình thường".
KATERYNA KON / THƯ VIỆN ẢNH KHOA HỌC / Getty ImagesBằng cách làm như vậy, CBC có thể tiết lộ nếu có một bệnh nhiễm trùng đang phát triển hoặc nếu một loại thuốc kháng vi-rút như AZT (zidovudine) đang gây ra thiếu máu.
CBC đo lường các tế bào thành phần trong máu của bạn, bao gồm bạch cầu (bạch cầu), hồng cầu (hồng cầu) và tiểu cầu (huyết khối).Xét nghiệm thường được chỉ định từ 3 đến 6 tháng một lần nhưng có thể được chỉ định thường xuyên hơn nếu có nhiễm trùng hoặc bệnh đang hoạt động.
Số lượng tế bào máu trắng
Tế bào bạch cầu là một tập hợp con của các tế bào được tạo ra trong tủy xương có vai trò chính là chống lại nhiễm trùng. Số lượng bạch cầu (WBC) là một trong những bảng xét nghiệm có trong CBC không chỉ đo tổng số lượng bạch cầu mà còn cả các loại bạch cầu khác nhau trong một mẫu máu, cụ thể là:
- Bạch cầu ái kiềm
- Bạch cầu ái toan
- Tế bào bạch huyết
- Bạch cầu đơn nhân
- Bạch cầu trung tính
Trong bối cảnh của HIV, bạch cầu tăng cao thường có nghĩa là cơ thể bạn đang chống lại nhiễm trùng. Sau đó, các xét nghiệm khác có thể được thực hiện để xác định nguyên nhân chính xác.
Sự gia tăng của một số tế bào bạch cầu có thể chỉ ra một loại nhiễm trùng cụ thể hoặc một phản ứng viêm dị ứng. Ví dụ, bạch cầu ái toan cao hơn bình thường có thể gợi ý nhiễm ký sinh trùng như bệnh toxoplasma, trong khi bạch cầu ái toan tăng cao có thể phát triển ở những người có phản ứng quá mẫn cảm với thuốc.
Ngược lại, WBC thấp gợi ý rằng một số tình trạng, dù là HIV hoặc không liên quan đến HIV, đang ảnh hưởng đến khả năng sản xuất bạch cầu của tủy xương. Khi điều này xảy ra, cơ thể ít có khả năng chống lại nhiễm trùng.
Việc giảm bạch cầu có thể là kết quả của thuốc điều trị HIV (như AZT hoặc ganciclovir), một bệnh nhiễm vi rút nhẹ hoặc một bệnh nhiễm trùng cơ hội lớn như bệnh lao.
Tế bào lympho T CD4 là một loại tế bào bạch cầu mà HIV ưu tiên nhắm mục tiêu và lây nhiễm. Vì lý do này, chúng đóng vai trò là dấu hiệu trung tâm của tình trạng miễn dịch của bạn nếu bạn bị nhiễm HIV.
Số lượng tế bào máu đỏ
Các tế bào hồng cầu có nhiệm vụ vận chuyển oxy từ phổi đến các tế bào và mô của cơ thể. Số lượng hồng cầu (RBC) được thực hiện như một phần của CBC để đo tổng số hồng cầu trong một mẫu máu cùng với các giá trị chính khác, chẳng hạn như:
- Hematocrit: Phần trăm thể tích máu được các tế bào hồng cầu hấp thụ
- Hemoglobin: Lượng protein trong các tế bào hồng cầu chịu trách nhiệm vận chuyển các phân tử oxy
RBC thấp thường là dấu hiệu của bệnh thiếu máu, một tình trạng mà bạn thiếu đủ các tế bào hồng cầu khỏe mạnh để vận chuyển đầy đủ oxy đến các mô của cơ thể.
Trong bối cảnh của HIV, thiếu máu được biết là một tác dụng phụ phổ biến của AZT. Thiếu máu cũng có thể do nhiễm trùng đang hoạt động hoặc các nguyên nhân khác, cả HIV và không liên quan đến HIV.
Ngược lại, RBC cao bất thường, được gọi là bệnh đa hồng cầu, ít liên quan đến nhiễm HIV hơn. Điều đó đã nói lên rằng, những người nhiễm HIV đang điều trị liệu pháp thay thế testosterone (đôi khi được sử dụng để điều trị HIV suy kiệt hoặc suy sinh dục do HIV) thường sẽ có RBC cao hơn bình thường.
Số lượng tiểu cầu
Tiểu cầu là những tế bào máu không màu tham gia vào quá trình đông máu. Số lượng tiểu cầu hiếm khi cao đến mức gây ra các vấn đề về sức khỏe.
Ngược lại, số lượng tiểu cầu thấp (giảm tiểu cầu) có thể dẫn đến dễ chảy máu hoặc bầm tím. Những trường hợp nặng thậm chí có thể bị chảy máu bên trong nguy hiểm đến tính mạng.
Giảm tiểu cầu có liên quan đến nhiễm HIV mãn tính, chủ yếu ở những người mắc bệnh giai đoạn nặng chưa được điều trị. Như đã nói, ở bất kỳ đâu từ 5% đến 15% trường hợp, giảm tiểu cầu là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.
Việc bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút nói chung có thể giải quyết tình trạng này bằng cách ức chế các tác nhân gây viêm góp phần vào số lượng tiểu cầu thấp.
Một số loại thuốc HIV như Fuzeon (enfuvirtide) cũng có thể gây ra số lượng tiểu cầu thấp, cũng như các bệnh nhiễm trùng cơ hội như cytomegalovirus (CMV) và mycobacterium avium complex (MAC).
Hướng dẫn thảo luận với bác sĩ HIV
Nhận hướng dẫn có thể in của chúng tôi cho cuộc hẹn tiếp theo của bác sĩ để giúp bạn đặt những câu hỏi phù hợp.
tải PDF Gửi hướng dẫn qua emailGửi cho chính bạn hoặc một người thân yêu.
Đăng kýHướng dẫn Thảo luận dành cho Bác sĩ này đã được gửi tới {{form.email}}.
Có một lỗi. Vui lòng thử lại.