Tiểu đêm là một thuật ngữ y tế được sử dụng để mô tả nhu cầu thường xuyên thức dậy vào ban đêm để đi tiểu. Đó là một tình trạng mà mọi người thường cho là do tuổi già, nhưng có những lý do khác khiến nó có thể xảy ra. Một số nguyên nhân là lành tính và dễ dàng giải quyết khi thay đổi lối sống; những người khác có thể dai dẳng hoặc dấu hiệu của một căn bệnh nghiêm trọng.
Verywell / Brianna GilmartinTiểu đêm mãn tính có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của một người, gây ra tình trạng thiếu ngủ, mệt mỏi vào ban ngày, suy giảm khả năng tập trung, trầm cảm và mất năng suất.
Sinh lý học
Tuổi già là một trong những yếu tố chính liên quan đến chứng tiểu đêm, với phần lớn các trường hợp ảnh hưởng đến những người trên 60 tuổi. Có thể có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này, nhưng một trong những lý do chính là tình trạng được gọi là chứng tiểu đêm nhiều lần (NP) trong mà lượng lớn nước tiểu được tạo ra trong khi ngủ.
Tỷ lệ mắc chứng đa niệu về đêm tăng lên theo tuổi tác, với 77% phụ nữ lớn tuổi và 93% đàn ông lớn tuổi bị ảnh hưởng.
Kích thước bàng quang của một người cũng đóng một vai trò lớn trong nguy cơ mắc chứng tiểu đêm. Điều này đặc biệt đúng ở những người trẻ tuổi, trong đó lượng nước tiểu được tạo ra vào ban đêm thường có thể vượt quá khả năng của các cơ quan.
Chế độ ăn
Nhu cầu đi tiểu đêm có thể liên quan đến chế độ ăn uống, gây ra chứng tiểu đêm trực tiếp (bằng cách kích thích sản xuất nước tiểu) hoặc gián tiếp (bằng cách ép bàng quang). Trong số một số nguyên nhân phổ biến hơn do chế độ ăn uống là:
- Rượu và caffein: Cả hai đều có đặc tính lợi tiểu, kích thích sản xuất nước tiểu.
- Chế độ ăn muối: Quá nhiều muối (natri) có thể gây ra chứng tiểu đêm ở những người bị béo phì hoặc cung lượng tim kém. Natri làm tăng giữ nước, chất lỏng có thể chỉ được tiết ra vào ban đêm khi bàng quang đầy.
- Mất nước: Chỉ cần uống quá nhiều nước trước khi đi ngủ cũng đủ để kích hoạt tình trạng đi vệ sinh giữa đêm.
- Chế độ ăn ít chất xơ: Táo bón mãn tính là hậu quả phổ biến của chế độ ăn ít chất xơ. Vào ban đêm, sự tích tụ của phân có thể khiến ruột căng ra, gây áp lực trực tiếp lên bàng quang.
Thai kỳ
Tiểu đêm có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ nhưng thường vì những lý do rất khác nhau. Thời gian tiểu đêm phổ biến bao gồm:
- Thời kỳ đầu mang thai: Trong thời kỳ đầu mang thai, phụ nữ thường cảm thấy cần phải đi tiểu vào ban đêm vì mức progesterone tăng cao thúc đẩy đầy hơi và giữ nước. Trong một số trường hợp, tiểu đêm có thể là dấu hiệu sớm của việc mang thai.
- Mang thai muộn hơn: Đặc biệt là trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba, không có gì lạ khi phụ nữ bị đi tiểu thường xuyên do tử cung chèn ép bàng quang. Vào ban đêm, một số vị trí trên cơ thể có thể tăng cường chèn ép và gây ra chứng tiểu đêm.
- Sau khi mang thai: Phụ nữ đôi khi sẽ bị sa bàng quang và cơ quan vùng chậu sau khi sinh, cả hai đều có thể gây áp lực lên đường tiết niệu.
Nghiên cứu cho thấy có tới 89% phụ nữ mang thai sẽ bị tiểu đêm vào một thời điểm nào đó trong thai kỳ.
Thuốc men
Tiểu đêm có thể do các loại thuốc bạn dùng. Trong một số trường hợp, một loại thuốc có thể thúc đẩy việc giải phóng acetylcholine, một hợp chất ảnh hưởng đến hệ thống và có thể gây ra các cơn co thắt bàng quang.
Vào những thời điểm khác, nó có thể làm giảm việc giải phóng norepinephrine, một loại hormone giúp chỉ đạo sự thư giãn của các cơ trơn, bao gồm cả các cơ của bàng quang. Các loại thuốc khác chỉ đơn giản là có tác dụng lợi tiểu.
Một số loại thuốc thường liên quan đến chứng tiểu đêm bao gồm:
- Darvon (propoxyphen)
- Declomycin (demeclocycline)
- Dilantin (phenytoin)
- Thuốc lợi tiểu, chẳng hạn như Lasix (furosemide)
- Lanoxin (digoxin)
- Lithium
- Penthrox (metoxyflurane)
Việc sử dụng quá nhiều vitamin D cũng có thể thúc đẩy đi tiểu đêm.
Cảm giác muốn đi tiểu thường trùng với nồng độ đỉnh của thuốc trong máu. Điều chỉnh thời gian của liều có thể giúp giải quyết chứng tiểu đêm ở một số người. Ở những người khác, có thể cần thay thế thuốc.
Điều kiện cấp tính
Tiểu đêm có thể xảy ra song song với một tình trạng cấp tính liên quan đến đường tiết niệu. Các điều kiện tiết niệu bao gồm:
- Sỏi bàng quang
- Viêm bàng quang kẽ (nhiễm trùng bàng quang)
- Sỏi thận
- Viêm bể thận (nhiễm trùng thận)
- Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI)
Với những tình trạng như thế này, tình trạng viêm nhiễm có thể gây ra tình trạng tiểu gấp (nhu cầu đi tiểu đột ngột do co thắt đường tiết niệu). Tiểu đêm thường là hiện tượng tiểu gấp kéo dài trong ngày. Một khi nguyên nhân gây viêm được điều trị, chứng tiểu đêm hầu như sẽ biến mất.
Bệnh mãn tính
Tiểu đêm cũng có thể là kết quả của một tình trạng mãn tính và do đó, có thể kéo dài và khó giải quyết hơn. Một số nguyên nhân là do tiết niệu và những nguyên nhân khác thì không. Phổ biến nhất bao gồm:
- Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH)
- Ung thư bàng quang
- Suy tim mãn tính (CHF)
- Bệnh tiểu đường
- Tăng huyết áp
- Bệnh đa xơ cứng (MS)
- Bàng quang hoạt động quá mức (OAB)
- Bệnh Parkinson (PD)
- Ngưng thở khi ngủ
Tiểu đêm có thể liên quan đến giảm cung lượng tim và tăng giữ nước, chẳng hạn như xảy ra với CHF. Tăng huyết áp và ngưng thở khi ngủ đều có thể gây áp lực lên tim và kích thích giải phóng một hợp chất được gọi là peptide natri lợi tiểu nhĩ (ANP) kích hoạt giải phóng natri và nước.
Các tình trạng khác gây ra chứng tiểu đêm do chèn ép bàng quang (BPH), giảm sức chứa của bàng quang (ung thư bàng quang) hoặc kích thích bàng quang (MS, OAB, PD). Lượng đường trong máu tăng cao cũng thúc đẩy sản xuất nước tiểu vào ban đêm.
Một lời từ rất tốt
Đối với một số người, tiểu đêm có thể được coi là "dấu hiệu của tuổi tác", nhưng không bao giờ được bỏ qua nếu nó nghiêm trọng và ảnh hưởng đến khả năng ngủ ngon của bạn. Trong một số trường hợp, nó có thể là dấu hiệu của bệnh nghiêm trọng hoặc sắp có thể điều trị được. Ở những người trẻ tuổi, chứng tiểu đêm không bao giờ được bỏ qua.