Ung thư phổi được phân giai đoạn để mô tả mức độ nghiêm trọng của bệnh và từ đó có hướng điều trị thích hợp. Phân đoạn ung thư phổi dựa trên một loạt các xét nghiệm xác định loại bệnh nào có liên quan, khối u nguyên phát (ban đầu) lớn như thế nào, và mức độ ung thư có thể đã hoặc chưa di căn (di căn).
Nomad / istockXác định giai đoạn ung thư phổi của bạn là một trong những bước quan trọng nhất sau khi chẩn đoán ban đầu. Nó có thể là một quá trình liên quan, đòi hỏi sự kiên nhẫn vì nhiều thử nghiệm và quy trình được thực hiện. Nhưng việc xác định chính xác giai đoạn ung thư phổi của bạn không chỉ có thể giúp bạn đạt được đáp ứng điều trị tối ưu mà còn hỗ trợ dự đoán kết quả có thể xảy ra của bệnh, được gọi là tiên lượng.
Hệ thống phân giai đoạn khác nhau tùy thuộc vào việc bạn bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), chiếm khoảng 85% các chẩn đoán, hoặc ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC), chiếm 15% các trường hợp.
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ
2:57Xem ngay: Tổng quan về giai đoạn ung thư phổi không tế bào nhỏ
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ là một nhóm các bệnh ung thư có biểu hiện giống nhau, ba bệnh phổ biến nhất là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào lớn. Các loại NSCLC này khác nhau tùy theo phần phổi mà chúng bắt nguồn và tốc độ phát triển và lây lan của chúng.
Mặc dù mỗi loại đều có những đặc điểm và kết quả khác nhau, nhưng tất cả các bệnh ung thư đều được phân chia theo cùng một cách. Như một nhóm, NSCLC được chia thành năm giai đoạn, từ giai đoạn 0 đến giai đoạn 4.
Trong số này, phần lớn được chẩn đoán ở giai đoạn 3 và 4, theo một nghiên cứu năm 2013 được công bố trên tạp chíThorax:
Giai đoạn 0
NSCLC giai đoạn 0, còn được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ hoặc tiền ung thư, là một chẩn đoán khá phổ biến vì nó hiếm khi có bất kỳ triệu chứng nào.Khi căn bệnh này được phát hiện sớm, nó thường là do chụp cắt lớp vi tính (CT) được thực hiện để tầm soát ung thư phổi hàng năm cho những người có nguy cơ cao.
Theo định nghĩa, NSCLC giai đoạn 0 chỉ giới hạn trong niêm mạc của đường thở và chưa lan vào phổi. Nếu không được điều trị, tiền ung thư có thể phát triển thành ung thư.
NSCLC giai đoạn 0 thường được điều trị bằng phẫu thuật, chẳng hạn như cắt bỏ sụn chêm (phẫu thuật cắt bỏ một phần phổi) hoặc cắt bỏ ống tay áo (nếu khối u nằm ở ngã ba nơi khí quản đi vào phổi). Không cần hóa trị hoặc xạ trị.
Nếu không thể phẫu thuật do sức khỏe của một người hoặc vị trí của khối u, một dạng bức xạ nhắm mục tiêu được gọi là xạ trị toàn thân lập thể (SBRT) có thể được sử dụng với mục đích chữa khỏi bệnh.
Tất cả các giai đoạn của ung thư phổi đều xâm lấn, ngoại trừ giai đoạn 0.
Giai đoạn 1
Giai đoạn 1 NSCLC được chẩn đoán khi một khối u xâm lấn nhưng chưa lan đến bất kỳ hạch bạch huyết nào.
Giai đoạn 1 NSCLC tiếp tục được chia thành hai loại phụ:
- Giai đoạn 1a: Khối u có đường kính dưới 3 cm (cm), hoặc 1¼ inch, và phần đã xâm lấn các mô phổi sâu hơn có chiều ngang không quá ½ cm (dưới ¼ inch).
- Giai đoạn 1b: Khối u có đường kính lớn hơn 3 cm nhưng không lớn hơn 4 cm (chỉ hơn 1 ½ inch). Ung thư giai đoạn Ib phải đã phát triển thành một trong những đường dẫn khí chính (phế quản) hoặc màng bao quanh phổi (màng phổi nội tạng).
Đối với một số người bị NSCLC giai đoạn 1a, phẫu thuật ung thư phổi có thể là phương pháp điều trị duy nhất cần thiết. Cắt bỏ nêm thường chỉ được xem xét nếu khối u rất nhỏ. Nếu không, phẫu thuật cắt bỏ thùy (trong đó một trong những thùy của phổi bị loại bỏ) mang lại cơ hội chữa khỏi cao hơn nhiều.
Đối với ung thư phổi giai đoạn 1b hoặc các trường hợp có các đặc điểm tích cực (chẳng hạn như có thể xảy ra với ung thư biểu mô tế bào lớn), bác sĩ ung thư có thể đề nghị hóa trị bổ trợ. Đây là một hình thức hóa trị sau khi phẫu thuật để giúp đảm bảo rằng tất cả các tế bào ung thư đã bị tiêu diệt.
Nếu bạn có một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khiến bạn không thể phẫu thuật, SBRT có thể được sử dụng.
Giai đoạn 2
NSCLC giai đoạn 2 là một bệnh ung thư khu trú chưa lan ra ngoài một phổi hoặc các hạch bạch huyết ở bên đó của phổi. Các khối u có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn ung thư giai đoạn 1 nhưng đã lan đến các hạch bạch huyết, đường thở hoặc các mô màng phổi nội tạng gần đó.
Giai đoạn 2 NSCLC được chia nhỏ như sau:
- Giai đoạn 2a: Khối u lớn hơn 4 cm nhưng không lớn hơn 5 cm (2 inch) và đã lan đến phế quản hoặc màng phổi tạng nhưng không có các hạch bạch huyết gần đó.
- Giai đoạn 2b: Khối u có kích thước từ 3 đến 5 cm và đã lan sang các hạch bạch huyết gần đó, hoặc từ 5 đến 7 cm (2¾ inch) và chưa lan đến các hạch bạch huyết gần đó. Đường thở hoặc màng phổi nội tạng cũng bị ảnh hưởng.
Phương pháp điều trị NSCLC giai đoạn 2 thường bao gồm phẫu thuật ung thư phổi, sau đó là hóa trị. Nếu vẫn còn tế bào ung thư sau khi điều trị, một đợt hóa trị khác (hoặc hóa trị với bức xạ, được gọi là hóa trị) có thể được sử dụng.
Giai đoạn 3
Giai đoạn 3 NSCLC có nghĩa là ung thư đã lan đến các mô lân cận (khu vực). Có cả ung thư giai đoạn 3 và giai đoạn 3 tiến triển cục bộ, những loại ung thư sau này khó điều trị hơn.
Giai đoạn 3 NSCLC được chia nhỏ như sau:
- Giai đoạn 3a: Khối u, được mô tả là đã phát triển cục bộ, nhỏ hơn 5 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết của carina (sườn sụn giữa phổi); dài từ 5 đến 7 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết (nơi phế quản đi vào phổi); hoặc lớn hơn 7 cm và đã phát triển thành các cơ quan lân cận trong lồng ngực (chẳng hạn như tim hoặc cơ hoành) có hoặc không có hạch bạch huyết.
- Giai đoạn 3b: Khối u, được mô tả là tiến triển, có thể có kích thước khác nhau và đã lan đến các hạch bạch huyết thượng đòn (xung quanh xương đòn) hoặc bên đối diện của ngực, hoặc biểu hiện bằng hai hoặc nhiều khối u ở một hoặc cả hai phổi.
Các phương pháp điều trị NSCLC giai đoạn 3a và 3b rất khác nhau. Đối với giai đoạn 3a, phẫu thuật có thể được thực hiện với mục đích chữa khỏi ung thư. Điều này thường đi kèm với hóa trị.
Ngược lại, NSCLC giai đoạn 3b được coi là không hoạt động được. Thay vì chữa bệnh, các phương pháp điều trị tập trung vào việc kéo dài tuổi thọ và đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể.
Chemoradiation thường được sử dụng cho ung thư phổi giai đoạn 3b nếu bạn đủ khỏe mạnh và đủ sức chịu đựng. Nếu đạt được sự kiểm soát, thuốc điều trị miễn dịch Imfinzi (durvalumab) có thể được sử dụng đến một năm để giữ cho khối u ổn định. Nếu không dung nạp được hóa chất, có thể sử dụng thuốc trị liệu miễn dịch Keytruda (pembrolizumab).
Giai đoạn 4
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn 4 là giai đoạn phát triển nhất của bệnh ung thư phổi. Còn được gọi là ung thư phổi di căn, nó đề cập đến bất kỳ kích thước và loại NSCLC nào đã thực hiện một trong những điều sau:
- Lây lan từ phổi này sang phổi kia
- Lan sang một phần khác của cơ thể
- Lan truyền đến chất lỏng xung quanh phổi hoặc tim
Ung thư phổi giai đoạn 4 không thể chữa khỏi, nhưng nó có thể điều trị được. Phẫu thuật hiếm khi được sử dụng trừ khi một khối u đang gây tắc nghẽn lớn trong đường thở hoặc can thiệp vào chức năng của tim hoặc các cơ quan quan trọng khác.
Ngoài hóa trị, xạ trị và liệu pháp miễn dịch, có các liệu pháp nhắm mục tiêu mới hơn như Xalkori (crizotinib) và Tarceva (erlotinib) có thể xác định và tấn công các tế bào ung thư có đột biến gen cụ thể (chẳng hạn như đột biến EGFR, sắp xếp lại ALK và ROS1 sắp xếp lại). Kết hợp với nhau, những phương pháp điều trị này có thể giúp kéo dài tuổi thọ và cho phép bạn có cuộc sống chất lượng hơn.
Các thử nghiệm lâm sàng cũng nên được xem xét, cho phép bạn tiếp cận với các phương pháp điều trị thử nghiệm khi các loại thuốc hiện có được chứng minh là không dung nạp hoặc không hiệu quả.
Ung thư phổi tế bào nhỏ
Ung thư phổi tế bào nhỏ là một dạng bệnh ít phổ biến hơn, có xu hướng phát triển mạnh hơn NSCLC và có nhiều khả năng tái phát sau khi điều trị.
Có hai loại SCLC chính: ung thư biểu mô tế bào nhỏ (còn được gọi là ung thư biểu mô tế bào yến mạch) và ung thư biểu mô tế bào nhỏ kết hợp (trong đó có cả tế bào ung thư phổi nhỏ và không nhỏ). Lựa chọn điều trị cho SCLC khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn bệnh đang ở.
Không giống như ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, ung thư phổi tế bào nhỏ chỉ được chia thành hai giai đoạn: SCLC giai đoạn hạn chế và SCLC giai đoạn rộng.
Giai đoạn giới hạn
Khoảng một phần ba số người được chẩn đoán trong giai đoạn sớm nhất của ung thư phổi tế bào nhỏ, được gọi là SCLC giai đoạn giới hạn. Những khối u này chỉ xuất hiện ở một phổi nhưng cũng có thể đã lan đến các hạch bạch huyết ở cùng bên ngực. .
SCLC đã lan đến các hạch bạch huyết thượng đòn hoặc hạch bạch huyết trung thất (ở giữa ngực) cũng có thể được coi là SCLC giai đoạn giới hạn.
SCLC giai đoạn hạn chế thường được điều trị tích cực với mục đích chữa khỏi bệnh. Điều này có thể liên quan đến:
- Hóa trị một mình
- Chemoradiation vào ngực
- Phẫu thuật sau đó là hóa trị
- Phẫu thuật sau đó là hóa trị
- SBRT sau đó là hóa trị (nếu không thể phẫu thuật)
Giai đoạn mở rộng
Khoảng 2/3 số người được chẩn đoán mắc SCLC mắc bệnh ở giai đoạn rộng, dạng ung thư phổi tế bào nhỏ tiến triển hơn. Với SCLC giai đoạn rộng, một trong những điều sau đây là đúng:
- Có khối u ở cả hai phổi
- Các khối u đã di căn đến các bộ phận xa của cơ thể, phổ biến nhất là não
SCLC giai đoạn rộng không thể chữa khỏi và hiếm khi được điều trị bằng phẫu thuật. Mặc dù nó có xu hướng lây lan mạnh, SCLC đáp ứng tốt với hóa trị liệu (hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu vào các tế bào tái tạo nhanh).
Trong số các lựa chọn điều trị cho SCLC giai đoạn rộng là:
- Hóa trị một mình
- Hóa trị với các loại thuốc điều trị miễn dịch như Opdivo (nivolumab)
- Hóa trị sau đó là xạ trị vào ngực
- Hóa trị sau đó là xạ trị vào đầu (để ngăn chặn sự di căn của ung thư lên não)
- Bức xạ tới não, cột sống, xương hoặc các bộ phận khác của cơ thể nơi ung thư đã di căn như một phần của điều trị giảm nhẹ (được sử dụng để giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống)
Tiên lượng
Việc phân giai đoạn ung thư phổi không chỉ dùng để định hướng điều trị mà còn dự đoán diễn biến và kết quả của bệnh. Chìa khóa cho tiên lượng là tỷ lệ sống sót. Đây là tỷ lệ phần trăm những người mắc bệnh được mong đợi sẽ sống trong một khoảng thời gian sau khi được chẩn đoán.
Tỷ lệ sống sót dựa trên tất cả mọi người mắc bệnh, không phân biệt tuổi tác và sức khỏe chung của họ tại thời điểm chẩn đoán. Như vậy, nếu bạn có sức khỏe tốt, khả năng bạn vượt qua thời gian sống sót ước tính sẽ cao hơn những người có sức khỏe kém.
Hầu hết các nhà dịch tễ học sử dụng tỷ lệ sống sót sau năm năm cho các mục đích so sánh. Những điều này dự đoán tỷ lệ những người sẽ sống choít nhấtnăm năm sau khi chẩn đoán. Giai đoạn ung thư càng tiến triển thì tỷ lệ sống càng giảm.
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với NSCLC và SCLC sau điều trị như sau:
NSCLCGiai đoạn 0: 100%
Giai đoạn 1a: 90%
Giai đoạn 1b: 80%
Giai đoạn 2a: 65%
Giai đoạn 2b: 56%
Giai đoạn 3a: 41%
Đợt 3b: 24%
Đợt 4: 10%
Giai đoạn hạn chế: 28%
Giai đoạn mở rộng: 6%
Hãy nhớ rằng mọi người đều khác nhau và mọi bệnh ung thư đều khác nhau. Mặc dù giai đoạn ung thư phổi là một công cụ vô giá để đảm bảo mức độ chăm sóc được tiêu chuẩn hóa dựa trên sự hiểu biết hiện tại về căn bệnh này, nhưng sự hiểu biết đó đang thay đổi hàng ngày.
Với sự ra đời nhanh chóng của các liệu pháp miễn dịch mới hơn và các loại thuốc nhắm mục tiêu, bạn có thể mong đợi thời gian sống sót ngày càng tăng đối với những người mắc NSCLC và SCLC trong những năm tới.
Một lời từ rất tốt
Thay vì tập trung vào việc bạn phải sống được bao lâu, hãy tìm hiểu càng nhiều càng tốt về giai đoạn bệnh của bạn và tiếp tục đánh giá về bất kỳ sự phát triển điều trị mới nào.
Nếu bạn nghi ngờ về một kế hoạch điều trị, đừng ngần ngại tìm kiếm ý kiến thứ hai từ một chuyên gia trong lĩnh vực này. Bạn có thể làm như vậy bằng cách liên hệ với chuyên gia tại trung tâm điều trị do Viện Ung thư Quốc gia chỉ định, người có nhiều khả năng được cập nhật về các phương pháp và phác đồ điều trị mới nhất.