Phần lớn, muỗi đốt gây khó chịu hơn là nguy hiểm. Tuy nhiên, một số loài muỗi truyền bệnh như sốt rét và sốt Tây sông Nile. Chúng làm điều này bằng cách đưa một sinh vật truyền nhiễm như vi rút hoặc trứng ký sinh vào cơ thể người khi chúng cắn.
Không phải tất cả các loài muỗi đều mang bệnh, và các loài muỗi khác nhau mang các bệnh khác nhau. Mặc dù khả năng mắc bệnh do muỗi đốt có thể rất thấp ở một số khu vực trên thế giới, nhưng nguy cơ mắc bệnh do muỗi đốt lại tương đối cao ở một số khu vực và vào những thời điểm cụ thể trong năm. Thực hiện các bước để ngăn ngừa muỗi đốt có thể giúp bạn tránh bị bệnh do muỗi truyền.
Môi trường sống của Muỗi
Mosquitos cần một nhiệt độ nhất định, tán lá và nguồn cung cấp nước để tồn tại. Mỗi loài muỗi đều có thể phát triển - và truyền bệnh - trong môi trường sống của chính chúng.
Ví dụ,Culex pipiens, loài muỗi truyền Tây sông Nile, sống ở vùng nước bẩn tù đọng, ô nhiễm.Anophelesmuỗi, truyền bệnh sốt rét, tồn tại gần các nguồn nước cố định, chẳng hạn như hồ, ao và đầm lầy.
Ngược lại,Aedes aegypti, loài truyền vi rút Zika, bệnh sốt xuất huyết và chikungunya, là một loài muỗi ở vùng nước lũ có thể sinh sản trong một lượng nước tương đối nhỏ, kể cả các vật chứa nhỏ.Aedes aegypticó thể phát triển mạnh ở các khu vực thành thị, đó là lý do tại sao dịch bệnh do vi rút Zika đã được xác định ở những môi trường ẩm ướt, ẩm ướt, đông dân cư như ở Brazil.
Bệnh sốt rét
Hình ảnh Tim Flach / Getty
Trên toàn thế giới, sốt rét là bệnh do muỗi truyền phổ biến nhất. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh sốt rét gây ra khoảng 405.000 ca tử vong mỗi năm, với hầu hết các ca bệnh xảy ra ở châu Phi, Đông Nam Á và Đông Địa Trung Hải.
Sốt rét là một bệnh nhiễm trùng máu nghiêm trọng do bất kỳ loài nào trong số bốn loài khác nhau củaKý sinh trùng Plasmodium,được lan truyền bởiAnophelusmuỗi.
Các triệu chứng của bệnh sốt rét bao gồm:
- Từng đợt sốt, đổ mồ hôi và ớn lạnh
- Đau đầu
- Nôn mửa
- Đau cơ (đau cơ)
Các biến chứng bao gồm thiếu máu tan máu (vỡ hồng cầu), giảm tiểu cầu (phá hủy tiểu cầu) và lách to (lá lách to). Nhiễm trùng sốt rét nghiêm trọng gây tổn thương cơ quan đe dọa tính mạng.
Bệnh sốt rét được chẩn đoán dựa trên xét nghiệm mẫu máu bằng kính hiển vi, có thể xác định được sinh vật ký sinh.
Thuốc trị sốt rét, bao gồm chloroquine và hydroxychloroquine, được sử dụng để điều trị bệnh sốt rét. Một số loại thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để ngăn ngừa bệnh sốt rét cho những người có nguy cơ mắc bệnh. Không có vắc xin để ngăn ngừa nhiễm trùng.
Virus Tây sông Nile
Hình ảnh Seraficus / Getty
Virus Tây sông Nile đã xuất hiện trên khắp thế giới, nhưng nó thường thấy nhất ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở các bang miền nam.
Căn bệnh này do nhiễm vi rút Tây sông Nile, được truyền quaCulex pipienscon muỗi.
Hầu hết những người bị nhiễm vi-rút West Nile đều không gặp bất kỳ ảnh hưởng nào hoặc phát triển các triệu chứng nhẹ, bao gồm sốt, nôn mửa, tiêu chảy, phát ban và đau nhức toàn thân.
Người lớn tuổi có nguy cơ bị bệnh nặng hơn. Trong một số trường hợp hiếm hoi, nhiễm trùng thậm chí có thể dẫn đến tử vong.
Các triệu chứng của nhiễm vi rút West Nile nghiêm trọng bao gồm:
- Sốt cao
- Cứng cổ
- Co giật
- Yếu cơ
- Mất phương hướng
Mặc dù bệnh này có liên quan đến chim (muỗi truyền bệnh từ chim sang người), nhưng không nên nhầm nó với bệnh cúm gia cầm, đây là một tình trạng khác.
Chẩn đoán nhiễm vi-rút Tây sông Nile liên quan đến xét nghiệm máu để xác định vi-rút hoặc các kháng thể của nó. Nhưng vi rút và kháng thể có thể không thể phát hiện được ngay cả khi ở một người đã bị nhiễm trùng.
Một người nhiễm vi-rút West Nile có khả năng hồi phục mà không cần can thiệp. Điều trị, khi cần thiết, được nhắm mục tiêu để làm giảm các triệu chứng. Không có điều trị kháng vi-rút hoặc vắc-xin cho bệnh Tây sông Nile.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyến cáo nên ngăn ngừa bệnh bằng các biện pháp kiểm soát muỗi trong môi trường và bảo vệ cá nhân khỏi bị muỗi đốt. Điều này đặc biệt quan trọng vào mùa hè và mùa thu ở các khu vực có dịch bệnh phổ biến.
Bệnh sốt xuất huyết
Hình ảnh Joao Paulo Burini / Getty
Sốt xuất huyết là một bệnh nhiễm trùng dovi rút sốt xuất huyếtvà lan truyền bởiAedes aegyptimuỗi vằn và muỗi hổ châu Á (Aedes albopictus). Nhiễm trùng này ảnh hưởng đến gần 300 triệu người mỗi năm. Nó hiếm khi gây tử vong; 4.032 trường hợp tử vong do sốt xuất huyết đã được ghi nhận trong năm 2015. Bệnh này xảy ra ở Châu Phi, Đông Nam Á, Nam Mỹ và Tây Thái Bình Dương.
Sốt xuất huyết gây sốt cao, phát ban và đau đầu. Nhiễm trùng cũng có thể gây đau cơ, khớp và xương dữ dội đến mức sốt xuất huyết được gọi là "sốt gãy xương".
Chẩn đoán bao gồm các xét nghiệm máu để xác định vi rút hoặc kháng thể của nó. Không có cách chữa trị hoặc liệu pháp kháng vi-rút cho bệnh sốt xuất huyết. Nó được điều trị bằng chăm sóc hỗ trợ và quản lý triệu chứng.
Hầu hết những người bị sốt xuất huyết đều bình phục, nhưng một số lại tiếp tục phát triển thành sốt xuất huyết Dengue, có thể gây chết người. Chăm sóc y tế trong những trường hợp này bao gồm dịch truyền tĩnh mạch và truyền máu.
Thuốc chủng ngừa sốt xuất huyết hiện có sẵn, nhưng nó không được khuyến cáo cho tất cả những người có nguy cơ bị nhiễm trùng. Khi một người nào đó tiếp xúc với vi rút sau khi đã được chủng ngừa, sẽ có nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết nặng hơn. Do đó, WHO khuyến cáo chỉ tiêm vắc-xin cho những người đã có kháng thể vớivi rút sốt xuất huyết.
Bệnh Chikungunya
Hình ảnh của Roger Eritja / Getty
Virus Chikungunya có thể lây truyềnbởi cả haiAedes aegyptivàAedes albopictus. Bệnh do vi-rút gây ra xảy ra ở những vùng có khí hậu ấm áp trên khắp thế giới, bao gồm Châu Phi, Ấn Độ, và một số vùng của Caribê và Nam Mỹ, ảnh hưởng từ 100.000 đến 200.000 người trên toàn thế giới mỗi năm.
Nó thường không gây ra triệu chứng và có thể gây ra một chứng bệnh tự giới hạn ở mức độ nhẹ, đặc trưng bởi sốt, nhức đầu, phát ban và đau nhức khớp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các cơn đau nhức kéo dài liên tục trong vài năm.
Bệnh Chikungunya được quản lý bằng điều trị hỗ trợ, bao gồm truyền dịch và thuốc giảm đau. Không có phương pháp điều trị đặc hiệu hoặc tiêm chủng để ngăn ngừa bệnh này.
WHO khuyến cáo những người có nguy cơ mắc bệnh chikungunya do các đợt bùng phát tại địa phương nên tự bảo vệ mình khỏi bị muỗi đốt. Các biện pháp phòng ngừa bao gồm thuốc chống côn trùng và quần áo bảo hộ.
Virus Zika
Hình ảnh Aluma / Lựa chọn của nhiếp ảnh gia / Hình ảnh GettyVirus Zika chủ yếu lây lan bởiAedes aegypti. Căn bệnh này, hiếm khi được xác định ở châu Á và châu Phi, đã được công nhận rộng rãi khi một đợt bùng phát nhiễm trùng xảy ra ở Brazil vào năm 2015
Các triệu chứng của nhiễm vi rút Zika bao gồm sốt, phát ban, đau đầu và đau khớp. Tình trạng nhiễm trùng này thường tự cải thiện, nhưng nó có thể gây ra tật đầu nhỏ (đầu nhỏ và não kém phát triển) và các dị tật bẩm sinh khác ở trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm bệnh.
Ngoài ra, nhiễm vi rút Zika có thể dẫn đến hội chứng Guillan barre, một bệnh thần kinh cấp tính có thể làm suy giảm hô hấp đến mức đe dọa tính mạng.
Virus Zika được chẩn đoán bằng các xét nghiệm máu có thể xác định được virus hoặc các kháng thể của nó. Không có cách chữa trị cho tình trạng này — nó được điều trị theo triệu chứng.
Bệnh viêm não St. Louis
Bệnh viêm não St. Louis gây ra bởi một loại virus flavivirus lây truyền qua muỗiCulex loài. Căn bệnh này phổ biến ở Châu Mỹ; trong năm 2015, 23 trường hợp đã được báo cáo.
Nhiễm trùng này hiếm khi gây ra các triệu chứng, nhưng khi nó xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng đến não và có thể gây chóng mặt, đau đầu, buồn nôn và lú lẫn. Nó được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu hoặc chọc dò thắt lưng lấy mẫu dịch não tủy, có thể xác định vi rút hoặc kháng thể đối với vi rút.
Không có phương pháp điều trị cụ thể hoặc tiêm chủng cho bệnh viêm não St. Louis. Phần lớn những người bị nhiễm bệnh được cho là cải thiện từ từ mà không cần điều trị, nhưng một số người bị tác dụng phụ kéo dài. Nguy cơ tử vong rất thấp.
Sốt vàng
In ảnh Collector / Contributor / Getty
Bệnh sốt vàng da ảnh hưởng đến 200.000 người trên toàn thế giới mỗi năm.
Căn bệnh này, phổ biến nhất ở Châu Phi và Nam Mỹ, là doarbovirus flavivirus, một loại vi rút lây lan bởiAedes aegypticon muỗi.
Các triệu chứng của sốt vàng da có thể nhẹ, gây ra một bệnh giống như cúm với sốt, ớn lạnh và đau đầu mà không có thuốc điều trị đặc hiệu. Nhưng một căn bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khoảng 15% những người bị nhiễm, có thể dẫn đến tử vong.
Các triệu chứng của bệnh sốt vàng da nghiêm trọng bao gồm:
- Vàng da (đổi màu vàng ở mắt và da)
- Sốt dai dẳng
- Nước tiểu đậm
- Nôn hoặc nôn ra máu (có thể có màu đỏ sẫm hoặc đen)
- Co giật
- Loạn nhịp tim (nhịp tim không đều)
- Sốc
- Hôn mê
Chẩn đoán sốt vàng da có thể khó khăn. Tuy nhiên, xét nghiệm máu hoặc nước tiểu có thể phát hiện vi-rút trong giai đoạn đầu. Sau đó, xét nghiệm để xác định kháng thể có thể cần thiết.
Điều trị sốt vàng da tập trung vào việc kiểm soát các triệu chứng bằng truyền dịch và thuốc để kiểm soát cơn sốt và giảm đau. Không có thuốc kháng vi-rút cụ thể.
Nên chủng ngừa để phòng ngừa bệnh sốt vàng da cho những người sống trong hoặc đi du lịch đến vùng lưu hành bệnh.