Verywell / Anastasia Tretiak
Rau diếp hoang không chỉ là rau diếp mọc trong tự nhiên; nó là một loài thực vật cụ thể được sử dụng thường xuyên trong y học thảo dược. Rau diếp dại (Lactuca virosa) có liên quan chặt chẽ với cây bồ công anh và được cho là có tác dụng an thần và giảm đau (giảm đau). Nó thường được sử dụng như một phương thuốc tự nhiên cho căng thẳng và đau mãn tính.
Rau diếp dại có thể được tìm thấy ở trung và nam châu Âu, Úc, vùng Punjab của Ấn Độ và Pakistan, và dọc theo bờ biển của Vương quốc Anh.
Cũng được biết đến như là
- Rau diếp đắng
- Rau diếp thuốc phiện
- Rau diếp độc
- Rakutu-karyumu-so
Một số người gọi rau diếp dại là "thuốc phiện của người nghèo" vì nó được cho là có tác dụng gây biến đổi cơ thể nhẹ nếu tiêu thụ quá mức.
Lợi ích sức khỏe
Rau diếp dại có chứa hai hợp chất - lactucin và lactucopicrin - hoạt động trên hệ thần kinh trung ương. Rau diếp dại có hàm lượng lactucopicrin cao nhất trong tất cả các loại cây, mặc dù rễ bồ công anh và rễ rau diếp xoăn cũng là những nguồn tốt.
Ngoài tác dụng an thần và giảm đau, lactucopicrin được cho là hoạt động như một chất ức chế acetylcholinesterase, có nghĩa là nó ngăn chặn các enzym cholinesterase làm chậm giao tiếp giữa các tế bào não. Rau diếp dại cũng được cho là có hoạt tính kháng khuẩn mạnh.
Dựa trên những đặc tính này, các nhà y học thay thế tin rằng rau diếp dại có thể ngăn ngừa hoặc điều trị các tình trạng sức khỏe sau:
- Bệnh Alzheimer
- Viêm khớp
- Bệnh hen suyễn
- Xơ vữa động mạch (xơ cứng động mạch)
- Ho
- Mất ngủ
- Đau khớp
- Bệnh sốt rét
- Đau bụng kinh
Mặc dù có rất nhiều tuyên bố về sức khỏe, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy rau diếp dại có thể ngăn ngừa hoặc điều trị bất kỳ tình trạng bệnh lý nào. Hầu hết các bằng chứng hiện tại phần lớn là giả thuyết hoặc giai thoại.
Điều đó không có nghĩa là rau diếp dại không có lợi. Đây là một số bằng chứng hiện tại cho biết.
Đau đớn
Bất chấp những tuyên bố từ lâu rằng rau diếp dại là một loại thuốc giảm đau mạnh, có rất ít nghiên cứu thực tế được thực hiện để hỗ trợ tác dụng này.
Nghiên cứu thường được nhắc đến nhất đã được xuất bản trongTạp chí Dân tộc họcvào năm 2006. Đối với nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã cung cấp cho chuột thí nghiệm lactucin, lactucopicrin hoặc ibuprofen (một loại thuốc chống viêm không steroid) ở dạng uống. Sau đó, những con chuột được gửi đến một bài kiểm tra trên đĩa nóng và một bài kiểm tra vuốt đuôi (trong đó đuôi của chúng được vuốt theo nghĩa đen) để đánh giá phản ứng của chúng đối với cơn đau.
Trong số các hợp chất được thử nghiệm, lactucopicrin là chất mạnh nhất và cần một nửa liều cho mỗi kg so với ibuprofen. Lactucin và lactucopicrin cũng dường như có tác dụng an thần bằng chứng là làm giảm hoạt động phản xạ của động vật (tức là phản ứng vật lý với các kích thích bên ngoài).
Bệnh sốt rét
Một nghiên cứu năm 2004 được công bố trênTạp chí Dân tộc họccho rằng lactucin và lactucopicrin được phân lập từ cây rau diếp xoăn thông thường có đặc tính chống sốt rét. Có thể giả định một cách hợp lý rằng điều tương tự cũng xảy ra với rau diếp dại, mặc dù vẫn chưa rõ hoạt động của các hợp chất này như thế nào đối với bệnh sốt rét.
Ngược lại, ngải ngọt (Artemesia annua), một loại cây khác giàu lactucin và lactucopicrin, chứa một chất chống sốt rét có hoạt tính cao gọi là artemisinin. Không giống như ngải cứu ngọt, rau diếp dại không chứa bất kỳ artemisinin nào.
Bệnh Alzheimer
Lactucopicrin trong rau diếp dại dường như là một chất ức chế acetylcholinesterase mạnh mẽ. Trong số những lợi ích của nó, một nghiên cứu năm 2016 trongTạp chí Dân tộc họcphát hiện ra rằng lactucopicrin làm tăng sự hình thành thần kinh trong các tế bào não được chiết xuất từ chuột thí nghiệm.
Hình thành tế bào thần kinh là một hiện tượng trong đó các tế bào thần kinh nảy mầm, được gọi là tế bào thần kinh, kết nối tế bào thần kinh này với tế bào thần kinh khác. Càng có nhiều nơ-ron thì việc truyền tín hiệu thần kinh càng mạnh.
Điều này cho thấy, nhưng không chứng minh rằng rau diếp dại có thể giúp bảo tồn chức năng não ở những người bị bệnh Alzheimer và các rối loạn thoái hóa thần kinh khác như bệnh Parkinson. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết.
Tác dụng phụ có thể xảy ra
Do có quá ít nghiên cứu được tiến hành nên người ta vẫn chưa biết tính an toàn lâu dài của rau diếp cá. Nếu được tiêu thụ với số lượng hợp lý, rau diếp dại thường được coi là an toàn, mặc dù nó có thể gây khó tiêu nhẹ, bồn chồn hoặc buồn ngủ.
Một số người có thể bị kích ứng da nếu dùng rau diếp cá bôi lên da. Điều này đặc biệt đúng đối với những người bị dị ứng mủ.
Mặc dù rau diếp hoang dã được sử dụng cho mục đích chữa bệnh, nhưng mủ tiết ra từ cây có độc tính cao. Điều này có thể mang lại cảm giác hưng phấn nhẹ tiến đến kích động cực độ nếu lạm dụng quá mức. Một nghiên cứu năm 2009 được xuất bản trongBáo cáo trường hợp BMJđã nêu chi tiết tám trường hợp ngộ độc xảy ra sau khi tiêu thụ một lượng lớn rau diếp sống hoang dã.
Do những tác hại có thể xảy ra, rau diếp dại không được dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú và trẻ em. Cũng có bằng chứng cho thấy rau diếp dại có thể làm trầm trọng thêm các tình trạng như tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (phì đại tuyến tiền liệt) hoặc bệnh tăng nhãn áp góc hẹp, cả hai đều bị ảnh hưởng bởi các chất ức chế acetylcholinesterase.
Không biết liệu rau diếp dại có tương tác với các loại thuốc khác hay không. Như đã nói, bạn nên tránh rau diếp dại nếu bạn đang dùng thuốc an thần hoặc bất kỳ loại thuốc an thần nào, bao gồm rượu, thuốc phiện và thuốc kháng histamine cũ hơn như Benadryl (diphenhydramine).
Khi nào nên gọi bác sĩ
Gọi 911 hoặc cơ quan kiểm soát chất độc, hoặc tìm kiếm sự chăm sóc khẩn cấp nếu bất kỳ điều nào sau đây xảy ra sau khi ăn rau diếp dại. Hầu hết các trường hợp không nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể phải nhập viện.
- Nhìn mờ
- Đôi mắt đỏ ngầu
- Tim đập loạn nhịp
- Hụt hơi
- Chóng mặt hoặc ngất xỉu
- Lú lẫn hoặc ảo giác
- Cực kỳ lo lắng và kích động
- Buồn nôn và ói mửa
- Chuột rút ở bụng
- Đổ mồ hôi nhiều
- Không có khả năng đi tiểu
Lựa chọn, Chuẩn bị và Lưu trữ
Rau diếp dại được bán phổ biến nhất ở Hoa Kỳ như một loại thực phẩm chức năng. Không có hướng dẫn về việc sử dụng thích hợp rau diếp dại, nhưng các nhà sản xuất thường khuyến nghị từ 400 miligam (mg) đến 500 mg mỗi ngày. Chất chiết xuất lỏng cũng có sẵn, với liều lượng thay đổi dựa trên nồng độ của dung dịch.
Rau diếp dại khô cũng được bán trực tuyến, và nó có thể được sử dụng để pha trà và sắc uống tại nhà. Tuy nhiên, sấy khôLactuca virosanên được sử dụng hết sức thận trọng khi bạn không thể kiểm soát liều lượng. Hơn nữa, không có cách nào để biết liệu các loại thảo mộc đã bị nhiễm thuốc trừ sâu, kim loại nặng, phân bón hóa học hoặc các chất độc hại khác hay không.
Ngược lại, viên nang rau diếp dại cung cấp liều lượng phù hợp. Thậm chí có những thương hiệu được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) chứng nhận hữu cơ, giúp giảm nguy cơ tiếp xúc với chất độc hại của bạn.
Cách chọn chất bổ sung
Bởi vì các biện pháp chữa bệnh bằng thảo dược được quản lý rất lỏng lẻo ở Hoa Kỳ, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi tiêu thụ rau diếp dại.
Nếu có thể, hãy chọn các chất bổ sung đã được cơ quan chứng nhận độc lập tự nguyện gửi đi thử nghiệm như Dược điển Hoa Kỳ (USP), ConsumerLab hoặc NSF International. Mặc dù chứng nhận độc lập là không phổ biến trong ngành công nghiệp bổ sung thảo dược, nhưng các nhà sản xuất lớn hơn đã bắt đầu áp dụng phương pháp này.
Câu hỏi thường gặp
Có lựa chọn thay thế an toàn cho rau diếp hoang không?
Có một số biện pháp tự nhiên có thể giúp giảm đau cơ xương khớp. Chúng bao gồm vỏ cây liễu trắng (được cho là làm dịu cơn đau khớp liên quan đến viêm xương khớp) và cây vuốt quỷ (thường được sử dụng để giảm đau do viêm khớp dạng thấp).
Những người khác thề bằng cannabidiol, còn được gọi là dầu CBD, hợp chất không tác động đến thần kinh trong cần sa được cho là có thể điều trị chứng lo âu, đau đớn và rối loạn vận động.
Mỗi chất này đều có tác dụng phụ nhưng có xu hướng tiềm ẩn độc tính thấp hơn. Các liệu pháp tâm-thân như thiền, yoga, châm cứu và thư giãn cơ tiến triển (PMR) cũng có thể giúp kiểm soát cơn đau.
Tôi có thể ăn rau diếp sống như tảng băng trôi hay rau diếp cá không?
Do nguy cơ nhiễm độc, không nên tiêu thụ rau diếp sống hoang dã. Mặc dù loài cây này không phổ biến ở Hoa Kỳ, nhưng nó đã được đưa vào trồng ở các vùng của California, Alabama, Iowa và Washington, D.C.